Ô rô là một loại cây thảo mọc hoang, ưa mọc những bãi nước lợ, bãi biển hay cửa sông…phân bố khắp nước ta. Đây là một cây Thuốc Đông y được các bác sĩ y học cổ truyền vận dụng vào nhiều bài thuốc chữa bệnh vô cùng hữu ích.
- Bạch hoa xà – thảo dược quý chữa bách bệnh
- Tìm hiểu bài thuốc chữa bệnh viêm xoang
- Một số lưu ý khi sử dụng thuốc đông Dược
Công dụng chữa bệnh tuyệt vời từ cây thuốc Ô rô
Thông tin cần biết về Ô rô
Ô rô có tên khoa học là Acanthus ebracteatus Vahl. Họ khoa học: thuộc họ Ô rô – Acanthaceae. Đây là dạng cây nhỏ cao 1m-1,5 m, thân tròn, không lông. Lá mọc đối, phiến không lông, mép có răng cứng rất nhọn. Bông ở chót nhánh, mang hoa mọc đối màu trắng, mỗi hoa có một lá bắc nhỏ; tràng có màu trắng, dài đến 2,2 cm; nhị 4, có lông ở bao phấn. Quả nang dài 2cm; hột 4, dẹp. Hoa quanh năm, chủ yếu từ mùa xuân đến mùa thu.
Thành phần hóa học có trong Ô rô
Theo dược sĩ Nguyễn Thị Thắm hiện đang là giảng viên khoa Cao đẳng Dược TPHCM tại Trường Cao đẳng Y dược Pasteur TPHCM cho biết trong cây Ô rô có chứa alcaloid. Trong rễ có tanin. Từ năm 1981, người ta đã tách được từ rễ một triterpenoidal saponin gọi là [( -L – arabinofuranosyl – ({1 ->~~4}) – b – D – glucuronopyranosyl ({1 ->~~3}) – 3b – hydrooxy – lup -20(29) -ene. Lá Ô rô chứa nhiều chất nhờn.
Đơn thuốc chữa bệnh áp dụng với cây Ô rô
Ô rô thường mọc hoang phân bố nhiều ở nước ta
- Rễ cây ô rô chữa ứ huyết: Rễ ỏ rô 30g, lá tràm 20g, sắc lấy nước uống. Chắc chắn rằng, 5 tác dụng của cây ô rô mang lại trong việc điều tri bệnh lý mà bài viết trên đây vừa liệt kê, sẽ giúp cho bạn đọc có thể hiểu rõ hơn về loại cây này, cũng như có thể dễ dàng ứng dụng vào điều trị những chứng bệnh mà mình gặp phải, một cách đúng đắn và hiệu quả.
- Rễ cây ô rô chữa thấp khớp, đau lưng, nhức xương, tô bại: Rễ ô rô 30g, canh châu 20g, rễ cây kim váng 8g, quế chi 4g. Tất cả thái nhỏ, tẩm rượu, sao vàng, sắc với nước, uống làm hai lần vào lúc đói.
- Trị hen suyễn, ho dòm: Ô rô 30 g, thái nhỏ, ninh nhỏ lửa với thịt lợn nạc 60g-120 g và nước 500ml cho sôi kỹ đến khi còn 150 ml. Uống làm 2 lần trong ngày. Đối với rễ của cây ô rô, thì thường được sử dụng là cạo sạch lớp vỏ ngoài, rửa sạch, thái mỏng, phơi hay sấy khô, khi dùng để sống hoặc sao vàng, sao cháy. Dược liệu có vị mặn, đắng, tính hàn, có tác dụng giảm đau, lợi thủy, trừ thấp, chống viêm.
- Trị đau gan, vàng da, trúng độc: Lấy 500g ô rỏ phối hợp với 500g vỏ cây quao nước, cắt nhỏ, sao vàng, cho vào thùng nhôm. Đổ vào 3 lít nước, nấu còn 1 lít. Lọc lấy nước thứ nhất. Tiếp tục đun với 2 lít nước nữa cho đến khi được 500ml. Lọc lấy nước thứ hai. Trộn hai nước lại, cho 400g đường trắng vào. Cô đặc còn một lít. Đổ 40 ml rượu có hòa 1g acid benzoic. Ngày uống hai lần, mỗi lần một thìa canh.
- Rễ cây ô rô chữa nước tiểu vàng, táo bón: Rễ ô rô 30g, lá muống trâu 18g, vừng đen 20g. Vừng giã nát, hai vị kia thái nhỏ, rồi trộn đều sắc uống trong ngày.
- Rễ cây ô rô chữa rong huyết: Rễ ô rô 30g, thái nhỏ, sao với giấm cho cháy đen, bổ hoàng 20 g sao cháy tồn tính; hoa kinh giới 18g, sao cháy tồn tính; sắc uống ngày 1 thang. Dùng nhiều ngày.
Ngoài những công dụng trên thì các giảng viên Cao đẳng Dược TPHCM tại Trường Cao đẳng Y dược TPHCM còn cho biết ở Trung Quốc người ta dùng rễ của cây Ô rô dùng trị bệnh gan, gan lách sưng to, hen suyễn, bệnh hạch bạch huyết, đau dạ dày, u ác tính.