Nguyên nhân gây đau thắt ngực là do giảm lưu lượng mạch vành do xơ vữa hay co thắt mạch vành, do tăng nhu cầu oxy của cơ tim hoặc giảm nồng độ oxy trong máu.
theo các thầy thuốc việt các thuốc tăng cung cấp có thể sử dụng được trong tất cả các trường hợp đau thắt ngực do thiếu máu cục bộ trong khi nhóm giảm nhu cầu chỉ có hiệu quả khi đau ngực do tăng hoạt động hệ tim mạch.
-
Isosorbid dinitrat:
- Thuốc chữa đau thắt ngực nhóm nitrat hưũ cơ.
- Biệt dược: Risordan, Sorbitrate, Coradur, Sorate, Iso-bid, Disorlon …
- Chỉ định chính là dự phòng và điều trị cơn đau thắt ngực.
- Không dùng khi huyết áp thấp, thiếu máu nặng, trụy mạch, Glaucom góc đóng, tăng áp nội sọ, hẹp van động mạch chủ, có thai, cho bú.
-
Nitroglycerin:
- Thuốc chữa đau thắt ngực nhóm nitrat. Một số biệt dược: Lenitral, Nitrobid, Nitrocor
- Chỉ định: Cấp cứu cơn đau thắt ngực, chữa cơn đau thắt ngực mọi thể, suy tim sung huyết.
- Chống chỉ định: Tăng áp lực nội sọ, nghi ngờ nhồi máu cơ tim. Thận trọng trong tăng nhãn áp, huyết áp thấp, đang uống rượu.
- Dùng thuốc kéo dài có thể gây lệ thuộc thuốc. Cấp cứu cơn đau thắt ngực ngậm dưới lưỡi 1 viên 2,5mg mỗi 5 phút cho đến khi hết đau. Có thể dùng dạng băng dán hay thuốc mỡ. Dự phòng đau thắt ngực dùng liều 2,5-10mg.
-
Trimethazidin:
- Thuốc điều trị đau thắt ngực, ổn định tuần hoàn.
- Các biệt dược: Vosfarel, Vastarel, Cardimax, Metazin …
- Chỉ định: Dự phòng cơn đau thắt ngực, tổn thương mạch máu võng mạc, chóng mặt kiểu vận mạch, chóng mặt Ménière, ù tai.
- Không dùng khi suy tim, truỵ mạch. Thận trọng khi giảm chức năng thận, chức năng gan, khi mang thai, đang cho con bú.